Nợ xấu có thể phình to trong năm 2024
Chất lượng tài sản của các ngân hàng tạm thời sẽ được kiểm soát ở mức hiện tại cho đến hết năm 2023, tuy nhiên sẽ cần lưu ý hơn khi bước sang năm 2024. Những rủi ro khiến nợ xấu xấu phình to trong năm sau có thể đến từ: (1) Thông tư 02 hết hiệu lực vào tháng 06/2024, các khoản nợ tái cơ cấu trước đây sẽ về đúng nhóm phân loại nợ; (2) Bộ đệm dự phòng của các ngân hàng thu hẹp trong năm 2023 khiến dư địa xử lý nợ cho năm sau không nhiều.
Hiện tại, LLCR giữa các ngân hàng có sự phân hoá rõ rệt, nhóm SOB vẫn duy trì bộ đệm trên 200%, trong khi tỷ lệ này ở các nhóm ngân hàng còn lại đều đã dưới mức 100% tính đến quý 3.
Theo KBSV, các ngân hàng có tệp khách hàng đa dạng, trích lập đầy đủ, bộ đệm dự phòng vững chắc, ít phơi nhiễm với BĐS và TPDN sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Nhóm ngân hàng top dưới với tỷ kệ bao phủ thấp (chỉ dưới 50%) sẽ chịu nhiều áp lực và không có dư địa để loại bỏ nợ xấu ra khỏi bảng cân đối
Các nguồn thu đều có mức tăng trưởng tương đối khiêm tốn
Thu nhập lãi thuần (NII) toàn ngành tăng trưởng khiêm tốn trong bối cảnh hoạt động cho vay giảm tốc do môi trường vĩ mô kém thuận lợi. Hầu hết các ngân hàng chỉ ghi nhận mức tăng trưởng một chữ số trong 9 tháng đầu năm nay, trong khi cùng kỳ mức tăng trưởng ghi nhận trong khoảng 10-25%.
Thu lãi thuần ở nhóm NHQD (SOB) dẫn đầu với mức tăng trưởng 4.82% so với 9T2022, nhóm NH TMCP Lớn và Vừa cũng có mức tăng trưởng khiêm tốn hơn với 3% YoY, trái lại NII của nhóm NH TMCP Nhỏ giảm 3.5% YoY.
KBSV kỳ vọng quý 4 các ngân hàng sẽ ghi nhận kết quả tích cực hơn được hỗ trợ bởi tín dụng tăng tốc trong những tháng cuối năm.
Thu ngoài lãi (NFI) - chiếm 20-25% trong TOI, cũng có diễn biến tương tự với thu lãi thuần bởi những làn gió ngược trên thị trường TPDN, bảo hiểm từ đầu năm nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến các nguồn thu phí của các ngân hàng.
Bù lại, một số ngân hàng đã tận dụng được biến động trên thị trường TPCP để thu lời từ hoạt động kinh doanh chứng khoán trong quý 3 (+20% QoQ), góp phần kìm hãm đà giảm của tổng thu ngoài lãi.
Các ngân hàng sẽ cần thêm thời gian để đưa NFI quay trở lại đà tăng trưởng như các năm trước: (1) Nghiệp vụ ngân hàng đầu tư còn phụ thuộc vào mức độ phục hồi của thị trường TPDN và đặc biệt là niềm tin của NĐT, mặc dù được kỳ vọng hồi phục trở lại trong năm 2024 trên nền thấp năm 2023 nhưng sẽ khó tăng mạnh như giai đoạn bùng nổ 2019-2021; (2) Tăng trưởng phí bancassurance dần phục hồi khi các Ngân hàng cùng công ty Bảo hiểm cải thiện chất lượng dịch vụ, bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Dự phóng mức tăng trưởng LNTT các ngân hàng trong danh mục đạt 10% trong năm 2024
Ước tính LNTT trước thuế của 27 ngân hàng có xu hướng giảm so với quý trước nhưng tăng nhẹ 2% so với cùng kỳ năm ngoái, và có sự phân hoá giữa các nhóm ngân hàng. Ngoại trừ nhóm NHQD có mức tăng trưởng dương YoY, các ngân hàng còn lại trong hệ thống đều có mức giảm so với quý 3/2022.
Điều này được giải thích bởi (1) tăng trưởng tín dụng dưới mức kỳ vọng và NIM bị thu hẹp; (2) nhiều ngân hàng tăng mạnh trích lập dự phòng trong bối cảnh chất lượng tài sản suy giảm nghiêm trọng; (3) chi phí hoạt động 9T2023 ghi nhận tăng so với cùng kỳ ở hầu hết các ngân hàng, mức tăng chung của cả ngành là 7% YoY.
Trong kịch bản cơ sở tăng trưởng tín dụng cho năm 2024 đạt 13-14%, chi phí hoạt động tiếp tục được kiểm soát, nhưng áp lực chi phí tín dụng cao sẽ chi phối LNTT. Nhìn chung, dự phóng tăng trưởng LNTT của các ngân hàng trong danh mục theo dõi đạt 10% trong năm sau
Định giá đang ở vùng hấp dẫn so với triển vọng dài hạn
Hiện tại ngành ngân hàng đang có mức P/B ở mức 1.4x – tương đương với mức -1 std trung bình 10 năm và tiệm cận với đáy năm 2020 và 2022 (1.3x).
Trong ngắn hạn, ngành ngân hàng sẽ vẫn phải đối mặt với những khó khăn nhất định, song vẫn có những điểm sáng trong bức tranh tổng thể như đã đề cập trong báo cáo này.
Với triển vọng dài hạn của ngành ngân hàng tại Việt Nam, KBSV cho rằng mức giá hiện tại hấp dẫn để các nhà đầu tư mua vào những cổ phiếu có nền tảng cơ bản tốt.
Cập nhật ngày 19/6/2022: Định giá cổ phiếu ngân hàng: đã tới lúc hấp dẫn?
Sự điều chỉnh của thị trường gần đây đã đưa cổ phiếu ngân hàng quay lại vùng định giá hấp dẫn với triển vọng giữ nguyên trong giai đoạn 2022-23.
Ngân hàng vẫn ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận mạnh mẽ trong Q1/22
Trong Q1/22, ngân hàng đã đạt tăng trưởng lợi nhuận 29% svck và ROE 22% nhờ vào tăng trưởng tín dụng tốt, thu nhập từ phí khả quan và chi phí tín dụng được kiểm soát tốt. Tín dụng toàn hệ thống tăng 6% từ đầu năm tính đến cuối Q1/22, cao hơn nhiều so với mức 3,45% vào cuối Q1/21 nhờ nhu cầu vay lớn nhằm đáp ứng hoạt động kinh doanh phục hồi trở lại sau dịch bệnh.
Tuy chất lượng tài sản có phần giảm sút khi tỷ lệ nợ xấu trung bình tăng trong khi tỷ lệ bao nợ xấu giảm nhẹ so với cuối 2021; tuy nhiên chúng tôi nhận thấy mọi thứ vẫn nằm trong tầm kiểm soát.
Duy trì dự báo cho toàn ngành giai đoạn 2022-23
Kỳ vọng nền kinh tế sẽ tăng tốc trở lại trong giai đoạn 2022-23 nhờ xuất khẩu tăng trưởng mạnh mẽ, nhu cầu phục hồi và các chính sách tài khóa hỗ trợ; và ngành ngân hàng là lựa chọn tiêu biểu trong bối cảnh nói trên.
Mặc dù biên lãi thuần khó có thể cải thiện do lãi suất huy động tăng, các ngân hàng vẫn sẽ ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận cao 29% và tỷ suất sinh lời ROE 22% trong 2022 dựa trên tăng trưởng tín dụng cao, thu nhập từ phí ổn định và chi phí tín dụng được kiểm soát tốt.
Định giá Cổ phiếu ngân hàng hấp dẫn và trước mắt là bước ngoặt
Việc thị trường điều chỉnh gần đây đã đưa định giá ngành ngân hàng xuống 1,46 lần P/BV dự phóng năm 2022, thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình 3 năm là 2 lần.
Ngành ngân hàng đã phải đối mặt với không ít khó khăn do lo ngại về lạm phát, NIM thu hẹp và nợ xấu gia tăng khi Thông tư 14 kết thúc. Hơn nữa, tâm lý dè chừng đối với cổ phiếu ngân hàng còn đến từ việc Chính phủ có những động thái quản lý và giám sát chặt chẽ hơn đối với thị trường vốn và bất động sản, dù việc này sẽ giúp cải thiện tính minh bạch và bền vững của thị trường trong dài hạn.
Tuy vậy, những sự kiện nói trên sẽ không đem lại hệ quả nghiêm trọng lên toàn ngành và chúng tôi tự tin rằng ngân hàng sẽ có thể vượt qua rủi ro chất lượng tài sản nhờ vào bộ đệm dự phòng dày dặn và sự kiểm soát chặt chẽ khi giải ngân vào phân khúc bất động sản có rủi ro cao; và đợt bán tháo ồ ạt trên thị trường vừa qua đã đưa định giá của các ngân hàng về mức rất hấp dẫn.
VNDirect ưa thích VPB, HDB và TCB dựa trên những câu chuyện riêng của mỗi ngân hàng bên cạnh nền tảng cơ bản vững chắc.