Dự báo tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt 12% trong năm 2023 và tiếp tục duy trì mức 12% trong năm 2024. Tăng trưởng tín dụng chịu áp lực từ nền kinh tế và thị trường bất động sản chậm phục hồi, tuy nhiên mặt bằng lãi suất hạ nhiệt xuống mức thấp tạo lực đẩy cho nhu cầu vay vốn, đặc biệt là tín dụng bán lẻ và SME. Danh mục TPDN của các ngân hàng dự kiến duy trì ổn định.
NIM đi ngang hoặc tăng nhẹ trong 2024 khi chi phí vốn được cải thiện, tuy nhiên lãi suất cho vay tiếp tục chịu áp lực giảm khi các ngân hàng cạnh tranh thu hút khách hàng chất lượng tốt. Tiềm năng mở rộng NIM thuộc về nhóm khách hàng tư nhân có thế mạnh về bán lẻ và CASA.
Nợ xấu nội bảng và mức trích lập dự phòng vẫn trong tầm kiểm soát nhờ các thông tư và chính sách hỗ trợ và khách hàng quay lại trả nợ khi áp lực chi phí lãi vay giảm bớt.
Trong kịch bản Thông tư 02 không được gia hạn, chúng tôi dự báo tỷ lệ nợ xấu toàn ngành (loại trừ SCB và các ngân hàng CGBB) tăng nhanh khi nợ tái cơ cấu tới thời hạn trả, tỷ lệ nợ tái cơ cấu sẽ giảm kể từ Q2.2024, tuy nhiên có sự phân hóa: - Nhóm ngân hàng chất lượng tài sản tốt sẽ ghi nhận nợ xấu và nợ tái cơ cấu kiểm soát ở mức vừa phải. - Nhóm ngân hàng có tỷ trọng tín dụng doanh nghiệp cao và có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp có thể sẽ phải đối mặt với rủi ro nợ xấu và áp lực trích lập tăng cao trong năm 2024 – 2025.
VCBS dự báo LNTT toàn ngành ngân hàng giảm tốc đi ngang trong năm 2023 và có sự phân hóa về triển vọng lợi nhuận giữa các nhóm ngân hàng. Lợi nhuận tiếp tục có sự phân hóa mạnh trong 2024 với mức tăng trưởng khoảng 10%, một số ngân hàng thuộc nhóm quy mô nhỏ sẽ tiếp tục giảm tốc, thậm chí tăng trưởng âm.
VCBS đánh giá triển vọng đầu tư cổ phiếu ngành ngân hàng đang ở mức phù hợp thị trường: - Định giá P/B toàn ngành hiện thấp hơn khoảng 15% so với mức trung bình 5 năm. - Nhóm cổ phiếu có thể xem xét đầu tư trong dài hạn là các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt và duy trì tốc độ tăng trưởng vượt trội so với ngành, bao gồm: ACB, BID, MBB, MSB, STB, TCB, VCB, VIB.
Cập nhật ngày 22/1/2023: năm 2023: nợ xấu tăng do bất động sản song vẫn hấp dẫn
Yuanta dự báo LNST của CĐCT mẹ năm 2023E của 27 ngân hàng niêm yết sẽ tăng +16% YoY do tín dụng tăng trưởng chậm lại và dự phòng tăng so với cùng kỳ.
Thu nhập lãi thuần năm 2023E sẽ tăng +12% YoY. NIM sẽ gặp áp lực trong 1H23 do chi phí huy động vốn cao và nguồn vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn giảm. Tuy nhiên, NIM sẽ cải thiện vào 2H23, và NIM cả năm sẽ đi ngang so với cùng kỳ ở mức 3,57% trong năm 2023E.
Thu nhập phí dự báo tăng +20% YoY trong năm 2023E. Tốc độ tăng trưởng doanh thu từ bancassurance có thể chậm lại vào năm 2023E do tăng trưởng tín dụng dự báo thấp hơn 2022.
Chi phí hoạt động sẽ tăng +10% YoY trong năm 2023E. Tuy nhiên, chúng tôi dự báo tỷ lệ CIR điều chỉnh sẽ giảm nhẹ -1 điểm phần trăm xuống còn 35% vào năm 2023E.
Về chất lượng tài sản. Nợ xấu sẽ tăng trong năm 2023E do những rủi ro tiềm ẩn trên thị trường bất động sản. Dự báo tỷ lệ nợ xấu của ngành sẽ tăng lên 1,65% trong năm 2023E (+10 điểm cơ bản YoY). Do đó, chi phí dự phòng có thể sẽ tăng lên, đặc biệt là tại các ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) thấp. Trong khi đó, các ngân hàng có tỷ lệ LLR cao (như VCB) sẽ có thể linh hoạt hơn trong việc giảm trích lập dự phòng nhằm gia tăng lợi nhuận.
Nhiều đợt chào bán cổ phần sẽ diễn ra trong năm 2023E. Ngoài ra, NHNN đang xem xét nới room lên trên 30% (nhưng không vượt quá 49%) đối với các ngân hàng tham gia tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém. Chúng tôi không nghĩ việc nới room sẽ diễn ra trong thời gian sớm, nhưng đây sẽ là một thông tin tích cực cho ngành ngân hàng.
Định giá hấp dẫn. Ngành ngân hàng đang giao dịch ở mức P/B 2023E trung bình là 1,0x với ROE 2023E là 18% (nguồn: Bloomberg).
Yuanta duy trì khuyến nghị MUA với các ngân hàng có chất lượng tài sản và hoạt động hiệu quả, bao gồm: VCB, MBB và ACB.
Cập nhật ngày 18/1/2022: Ngành ngân hàng năm 2022 – Nắn vốn tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên
Trong năm 2021, tín dụng tiếp tục tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên theo đúng chủ trương của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
Theo đó dòng tín dụng tập trung vào: Phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn (ước tính +13.5% svck); tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ (+11.98% svck), xuất khẩu (13.32% svck), công nghiệp (+21.52% svck) và công nghệ cao (+19.2% svck).
Trong năm 2022, Nhân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục định hướng và có giải pháp để hướng dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên. Tuy nhiên, điểm khác biệt trong năm 2022 đó là ngân hàng Nhà nước sẽ linh hoạt hơn trong việc “nới lỏng” hay “thắt chặt” tiêu chuẩn tín dụng với các nhóm ngành nghề khác nhau.
Cụ thể, bán buôn, bán lẻ; xuất, nhập khẩu; cho vay phục vụ nhu cầu đời sống và xây dựng tiếp tục là 4 lĩnh vực được các tổ chức tín dụng lựa chọn ưu tiên.
Ở chiều ngược lại, các tổ chức tín dụng có xu hướng “thắt chặt” hơn với lĩnh vực cho vay có rủi ro cao như “đầu tư kinh doanh chứng khoán”, “đầu tư kinh doanh bất động sản” và “sử dụng thẻ tín dụng”.
Trong năm 2022, ngành bất động sản và chứng khoán sẽ khó khăn hơn trong việc huy động vốn từ ngân hàng. Thêm vào đó, thông tư 16 chính thức có hiệu lực thắt chặt các quy định và điều kiện mua trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng sẽ càng gây khó khăn hơn cho các doanh nghiệp bất động sản ở cả hai kênh huy động vốn ngân hàng và trái phiếu doanh nghiệp.
Cập nhật ngày 8/1/2022: Ngành ngân hàng năm 2022 – cân đối giữa tăng trưởng lợi nhuận và chất lượng tài sản
Việc áp dụng giãn cách xã hội trên toàn quốc trong Q3/21 không chỉ kìm hãm tăng trưởng tín dụng mà còn khiến nợ xấu tăng nhanh. Trong khi đó, tỷ lệ bao nợ xấu (LLR) bình quân có xu hướng giảm trong Q3/21.
Ngoài ra, việc cải thiện NIM của các ngân hàng có khả năng chậm lại trong nửa cuối năm 2021 và thậm chí giảm vào năm 2022 do các ngân hàng đã được yêu cầu thực hiện nghiêm túc việc hạ lãi suất cho vay để hỗ trợ khách hàng.
CTCK VNDirect dự báo, sang năm 2022, các ngân hàng sẽ phải tái cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận và kiểm soát chất lượng tài sản. Nhà đầu tư nên lựa chọn các ngân hàng đã có nguồn dự phòng dồi dào cho các khoản vay rủi ro của họ và NIM ít bị ảnh hưởng.
Cập nhật ngày 16/12/2021: ngành ngân hàng - Dự báo năm 2022
Nhu cầu tín dụng duy trì tích cực, tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn ngành đạt 13 – 15% năm 2022. Nhóm ngân hàng có hệ số CAR cao và có mô hình hoạt động năng động sẽ tiếp tục được cấp mức room tín dụng cao hơn trung bình ngành.
NIM ngắn hạn đạt đỉnh tại H1.2021 và bắt đầu suy giảm nhẹ ở giai đoạn sau đó: - Nhóm ngân hàng tư nhân giảm nhẹ 0,1 – 0,2% năm 2022. Mức giảm ít hơn tại các ngân hàng tiếp tục cải thiện chi phí vốn. - Nhóm 4 ngân hàng thương mại nhà nước duy trì như hiện tại, nhưng có thể cải thiện mạnh mẽ trong trường hợp dừng triển khai các gói hỗ trợ lãi suất.
Nợ xấu và nợ tái cơ cấu phụ thuộc nhiều vào diễn biến dịch bệnh. Trong kịch bản cơ sở, Công ty Chứng khoán VCBS dự báo tỷ lệ nợ xấu toàn ngành tăng lên khi nợ tái cơ cấu tới thời hạn trả, tỷ lệ nợ tái cơ cấu sẽ giảm nhanh kể từ Q4.2021. Tuy nhiên, các ngân hàng chất lượng tài sản tốt sẽ không phải chịu nhiều áp lực về trích lập.
Dự báo LNTT toàn ngành ngân hàng sẽ có mức tăng trưởng tích cực trong năm 2022. Tuy nhiên sẽ có mức độ phân hóa rõ rệt với tiềm năng thuộc về nhóm ngân hàng tư nhân tiếp tục hạ được chi phí vốn. Các ngân hàng có thể đạt được mức tăng trưởng lợi nhuận cao trên 20% bao gồm: BID, MBB, TCB, ACB, TPB, MSB.
Lợi nhuận của cổ phiếu các ngân hàng không còn ghi nhận tốc độ tăng trưởng mạnh và đồng đều như giai đoạn nửa đầu năm 2021. Đồng thời, mức định giá của cổ phiếu các ngân hàng đã cao hơn trung bình quá khứ.
Do đó, theo Công ty Chứng khoán VCBS, giá cổ phiếu của các ngân hàng năm 2022 kỳ vọng có sự phân hóa mạnh theo tốc độ tăng trưởng và các câu chuyện riêng.
Cập nhật năm 2021: Đón chào con sóng lớn
Trải qua một năm 2020 đầy biến động, toàn ngành đã có những bước chuyển mình và chuẩn bị cho những biến động lớn tiếp theo. Chất lượng tài sản được kiểm soát tốt và được kỳ vọng giữ ở mức hiện tại trong năm 2021. Nhiều ngân hàng tập trung tiết giảm chi phí giúp tăng hiệu quả hoạt động. Thêm vào đó, nhiều catalyst đến từ các cổ phiếu (1) lên sàn và chuyển sàn, (2) bán một phần công ty con và ký hợp đồng bancassurance là những nhân tố giúp ngành ngân hàng có thể thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế.
Do đó, Công ty Chứng khoán BIDV - BSC khuyến nghị KHẢ QUAN với ngành Ngân hàng trong năm 2021 với quan điểm (1) tăng trưởng LN cao nhờ sự phục hồi của nền kinh tế, (2) kiểm soát tốt chất lượng tài sản sau dịch bệnh. BSC khuyến nghị MUA cổ phiếu VCB, CTG, VPB, TCB trong năm 2021.
BSC cho rằng ngành Ngân hàng sẽ có một năm tăng trưởng mạnh đến từ (1) mở rộng quy mô nhờ nền kinh tế phục hồi, (2) kiểm soát tốt chất lượng tài sản và (3) quản trị hiệu quả chi phí.
MỞ RỘNG QUY MÔ NHỜ TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG
BSC cho rằng quy mô của các ngân hàng sẽ được mở rộng trong năm 2021 nhờ (1) tăng trưởng tín dụng dự báo ở mức 14.0% trong năm 2021, (2) tối ưu hóa nguồn huy động, và đưa ra nhiều chiến lược tăng tỷ lệ CASA, hạ chi phí vốn.
Tăng trưởng tín dụng năm 2020 ở mức 12.13%, thấp nhất trong nhiều năm gần đây do ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID- 19 trong Q1 – Q3, khiến nhu cầu tín dụng suy giảm. Nhiều ngân hàng chủ động giảm cho vay cá nhân và SME do lo ngại về nợ xấu trong thời gian này. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng Q4.2020 đã có sự phục hồi mạnh nhờ những thông tin tích cực hỗ trợ thị trường đến từ vaccine.
Tín dụng có những tín hiệu phục hồi tích cực vào cho vay cá nhân và SME. Sự phục hồi của kinh tế được thể hiện rõ nét ở tín dụng Q4.2020 tăng trưởng ~6.1%, tương đương với mức năm 2017-2018 – là giai đoạn tốt nhất của ngành Ngân Hàng. Nhiều ngân hàng đã đưa ra kịch bản tích cực trong năm 2021 với tăng trưởng tín dụng từ 14.0% - 20.0% trong năm 2021.
BSC cho rằng tăng trưởng tín dụng toàn ngành sẽ đạt mức ~14.0% trong năm 2021 nhờ (1) nền kinh tế phục hồi, các DN quay trở lại sản xuất kinh doanh, (2) mặt bằng lãi suất thấp hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, (3) đẩy mạnh đầu tư công kích thích giải ngân cho vay vào các dự án về xây dựng cầu đường.
Dự báo tăng trưởng GDP năm 2021 đạt mức 6.3%. Vĩ mô ổn định với lạm phát quanh mức 3%, tỷ giá USD/VND tăng nhẹ từ 1% và lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng đi ngang ở mức 5.5%. Các chính sách tài khóa sẽ được thúc đẩy thông qua đẩy mạnh đầu tư công cùng với các biện pháp miễn, giảm, giãn thuế đã thực hiện trong năm 2020. Về chính sách tiền tệ, NHNN duy trì chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ và hỗ trợ tăng trưởng.
Tình hình vĩ mô được dự báo sẽ hồi phục mạnh và mặt bằng lãi suất được giữ ở mức thấp sẽ làm tăng nhu cầu tín dụng cho hoạt động SXKD, hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế đạt được mức như kỳ vọng.
Trong giai đoạn 2016 - 2019, tốc độ tăng trưởng cho vay bán lẻ là 27.0% trong giai đoạn từ 2015 – 2019 và giảm xuống mức 13.5% trong năm 2020. Các ngân hàng trong 9 tháng đầu năm 2020 đã chủ động cắt giảm cho vay SME và cá nhân, tập trung cho vay vào đối tượng KH lớn nhằm giảm thiểu rủi ro. Nhờ sự phục hồi của kinh tế, cho vay SME và cá nhân sẽ tiếp tục được đẩy mạnh cả về phía cầu và cung, từ đó hỗ trợ tăng trưởng tín dụng năm 2021.
Hiện nay, tăng trưởng tín dụng cho năm 2021 chưa có con số cụ thể cho từng ngân hàng, tuy nhiên nhiều NH đặt kế hoạch tăng trưởng nhanh nhờ sự phục hồi của nền kinh tế. Đây là những con số khả thi và giúp các ngân hàng gia tăng quy mô trong thời gian tới.
Hiện nay, tỷ lệ cấp tín dụng/huy động tại các ngân hàng đang được giữ ở mức trung bình 72.4%, thấp hơn nhiều so với mức giới hạn 85.0%. Trong đó, tỷ lệ này ở nhóm NHTM nhà nước = 82.0%, các NH TMCP ở mức 72.0%. Các NH TMCP sẽ tận dụng tăng tỷ lệ này trong thời gian tới để cải thiện biên lợi nhuận ròng (NIM).
Cơ cấu huy động khách hàng chuyển dịch dần sang cơ cấu nguồn vốn giá rẻ. Hiện nay, nhiều ngân hàng tập trung gia tăng CASA, nguồn vốn giá rẻ bằng nhiều chiến lược (1) tập trung giảm phí giao dịch và chuyển khoản, (2) nâng cấp cơ sở hạ tầng và hệ thống. Nhìn lại giai đoạn từ 2016 – 2020, tỷ trọng CASA đang dần dần được cải thiện lên mức ~18.0% trong năm 2020 và được kỳ vọng tiếp tục tăng tỷ trọng trong thời gian tới.
Nhiều ngân hàng tập trung vào chiến lược tăng trưởng CASA nhờ công nghệ, tận dụng nguồn vốn giá rẻ giúp giảm chi phí vốn. Thêm vào đó, việc hi sinh một phần phí giao dịch (chuyển khoản liên ngân hàng, phí quản lý tài khoản, …) giúp nhiều ngân hàng gia tăng CASA từ KHCN. Trong năm 2021, chúng tôi cho rằng việc cạnh tranh này sẽ khốc liệt hơn khi nhiều NH lớn bắt đầu gia tăng cạnh tranh khiến các NH với chiến lược hiện hữu khó có thể gia tăng vị thế trong tương lai.
CHẤT LƯỢNG TÀI SẢN – KIỂM SOÁT TỐT
Ngành ngân hàng đang ở vị thế tốt để chống đỡ những biến động lớn về nền kinh tế nhờ cả yếu tố bên ngoài và yếu tố nội tại. Về yếu tố bên ngoài, BSC kỳ vọng nhờ sự phục hồi của nền kinh tế, các DN và cá nhân bắt đầu quay lại hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo ra đủ dòng tiền để trả nợ cho ngân hàng, từ đó giảm bớt rủi ro về nợ xấu trong thời gian tới. Nhiều ngân hàng đã tăng mức trích lập dự phòng phòng ngừa rủi ro trong năm 2020, đẩy mức bao phủ nợ xấu lên mức cao giúp chống đỡ trước rủi ro tăng cao về nợ xấu. Nhiều khoản nợ VAMC đã được xử lý, giảm bớt áp lực trích dự phòng cho các khoản nợ này.
Nợ xấu trong năm 2020 được kiểm soát tốt <2.0%. Đây là kết quả ấn tượng trước tình hình dịch bệnh phức tạp. Tổng nợ xấu nội bảng ở mức 97,124 tỷ VND (+29.2% ytd) so với mức tăng trưởng tín dụng 12.13% trong năm 2020. Việc này phản ánh một phần sự suy giảm chất lượng tài sản do dịch bệnh.
Nhiều ngân hàng đang kiểm soát tốt chất lượng tài sản như TCB, CTG, VCB và SHB. Ở chiều ngược lại, chất lượng tài sản của TPB, STB và EIB suy giảm mạnh.
Thông tư 01 là chính sách hỗ trợ ngành ngân hàng vượt qua sóng lớn. Cụ thể, trong năm 2020, NHNN đã ban hành thông tư 01 với quy định về (1) cơ cấu lại thời hạn trả nợ (gốc và/hoặc lãi) trong khoảng thời gian từ 23/01/2020 đến ngày liền kề sau 3 tháng kể từ ngày Thủ tướng Chính phủ công bố hết dịch COVID-19 cho các khách hàng không có KN trả nợ đúng hạn nợ gốc và/hoặc lãi theo hợp đồng, thỏa thuận cho vay, (2) miễn, giảm lãi phí đối với các khoản nợ này, (3) giữ nguyên nhóm nợ và (4) các NH không được ghi nhận khoản lãi dự thu đối với khoản nợ này (nếu tái cơ cấu lãi).
Đây là chính sách hỗ trợ cho cả về phía nền kinh tế và cả ngành ngân hàng, nơi trung chuyển vốn của nền kinh tế. Theo số liệu của NHNN, tính đến hết T11.2020, các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ ~341,800 tỷ VND dư nợ, không tăng nhiều so với ~321,000 tỷ VND cuối T9/2020. Tuy nhiên, theo thống kê của BSC tại các NH niêm yết, dư nợ tái cơ cấu theo TT01 bắt đầu giảm trong Q4.2020 nhờ (1) sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam trong Q3 và Q4 giúp các khoản nợ nằm trong diện tái cơ cấu bắt đầu quay trở lại hoạt động SXKD, từ đó không cần tái cơ cấu và (2) các khoản nợ đã tái cơ cấu đã trả được nợ và không còn nằm trong diện tái cơ cấu.
Các khoản nợ VAMC và lãi dự thu không còn là rủi ro lớn đối với hệ thống. Năm 2020 cũng là một năm thành công với các NH lớn và nhỏ trong việc xử lý và trích lập dự phòng với các khoản nợ xấu VAMC. Hiện nay, khoản nợ VAMC lớn nhất thuộc về STB (~26,700 tỷ VND), SHB (~4,300 tỷ VND) và EIB (~1,200 tỷ VND) trong khi hầu hết các ngân hàng đã xử lý xong nợ VAMC trước hạn (CTG, BID). Đối với EIB và SHB, 2 ngân hàng này dự kiến sẽ xử lý xong nợ VAMC vào năm 2023, và STB dự kiến sẽ xử lý xong các khoản nợ này vào 2025.
Tổng các khoản lãi dự thu của toàn ngành ước tính ở mức 1.6% tổng cho vay, giảm mạnh so với năm 2016 (ở mức 2.5%).
Trong năm 2020, các ngân hàng đẩy mạnh trích lập dự phòng và xóa nợ xấu làm sạch bảng cân đối. Chi phí tín dụng trong năm 2020 hiện đang ở mức 1.6% - mức cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Mức trích lập dự phòng hiện nay đã lên mức 1.3% tổng dư nợ, đẩy mức LLCR tăng lên mức 82.6%.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng tích cực xóa nợ xấu nội bảng. Tổng nợ xấu đã xóa trong năm 2020 ở mức ~53,000 tỷ VND (+3.6% yoy), trong đó nhiều ngân hàng đẩy mạnh xóa nợ xấu nội bảng như TCB, HDB, VIB, CTG. Chúng tôi cho rằng, nhờ bước đệm mạnh mẽ này, cộng hưởng cùng sự phục hồi của nền kinh tế, ngành ngân hàng đang ở vị thế tốt để chống đỡ những rủi ro về biến động chung của nền kinh tế
Tỷ lệ an toàn vốn ở mức cao. Nhờ việc chuyển dịch dần sang quản lý tín dụng theo mức độ rủi ro từng khoản vay, CAR của các NH niêm yết được giữ ở mức cao - trung bình 10.6%. Tỷ lệ vốn NH cho vay TDH giảm về mức 28.0%, thấp hơn nhiều so với mức đề ra của SBV (hiện nay ở mức 40.0%)
Nền kinh tế được kỳ vọng phục hồi là điểm giúp nợ xấu của toàn ngành được cải thiện và được kiểm soát dưới mức 2.0%. Nhiều ngân hàng đã nâng cấp tiêu chuẩn cho vay và quy trình xét duyệt tín dụng, từ đó giúp việc kiểm soát nợ xấu chặt chẽ hơn. Đồng thời, sau khi áp dụng TT41, nhiều NH chuyển sang hướng kiểm soát cho vay thông qua RWA của các khoản vay thay vì hạn mức tín dụng từ xưa, từ đó siết chặt tiêu chuẩn cho vay. Do đó, chúng tôi cho rằng ngành ngân hàng hoàn toàn có thể kiểm soát tốt được chất lượng tài sản như hiện tại trong năm 2021.
Về các khoản nợ tái cơ cấu, chúng tôi cho rằng đây không phải là một điều ảnh hưởng tiêu cực đến bảng cân đối của ngành ngân hàng. Các khoản nợ tái cơ cấu, nếu trở thành nợ xấu, sẽ được trích lập trong vòng 3 năm kể từ ngày trở thành nợ xấu. Theo thống kê của BSC, 80% - 90% các DN đã tái cơ cấu nợ hiện đã có thể quay trở lại về hoạt động SXKD, từ đó có thể tiếp tục trả gốc và lãi. Điều này giúp tỷ lệ nợ xấu trong các khoản nợ tái cơ cấu sẽ chỉ ở mức 10%-20%.
BSC giả định trong trường hợp cơ sở với khoảng 10% dư nợ trở thành nợ xấu, tổng chi phí tín dụng (credit costs) của các DN trong theo dõi của BSC sẽ tăng lên 0.06%, và sẽ không ảnh hưởng đến DT và LN của các DN này.
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG – CẢI THIỆN NHỜ CẮT GIẢM CHI PHÍ
Trong năm 2021, BSC cho rằng các ngân hàng sẽ tập trung gia tăng hiệu quả hoạt động thông qua quản lý tốt chi phí hoạt động (OPEX) và chi phí tín dụng, từ đó giúp tăng LN toàn ngành.
Mặt bằng lãi suất được kỳ vọng sẽ ở mức thấp trong năm 2021. Mặt bằng lãi suất được cắt giảm trong năm 2020 nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi COVID-19. Trong năm 2020, NHNN đã nhiều lần cắt giảm lãi suất điều hành nhằm hỗ trợ nền kinh tế.
Việc giảm lãi suất này, cùng với các gói hỗ trợ lãi suất giúp giảm mặt bằng lãi suất cho vay xuống ~9.6%/năm vào cuối năm
2020 (-30 bps). Lãi suất huy động giảm mạnh, từ mức 5.2% xuống 4.7% nhờ (1) cắt giảm lãi suất theo thông tư của SBV,
Kỳ vọng 2021 – Mặt bằng lãi suất thấp giúp kích thích tăng trưởng nền kinh tế. Về chính sách tài khóa và tiền tệ, BSC cho rằng Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo hướng kích thích, giữ mặt bằng lãi suất ở mức thấp như hiện nay. Việc giữ vững mặt bằng lãi suất hiện tại sẽ giúp (1) hỗ trợ các DN bị ảnh hưởng có thêm nguồn vốn để phục hồi, (2) thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế trong năm 2021.
BSC dự báo biên lợi nhuận ròng (NIM) toàn ngành sẽ tăng nhẹ lên mức trung vị 3.7% (+15 bps) trong năm 2021 nhờ (1) mặt bằng lãi suất ổn định, (2) các khoản vay hỗ trợ ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19 trong năm 2020 sẽ hết hiệu lực, từ đó giúp các NH có thêm phần NII hỗ trợ, (3) tập trung gia tăng CASA giúp tiết giảm chi phí vốn.
Dự báo thu nhập lãi thuần (NII) sẽ tăng trưởng ở mức 17.8% yoy trong năm 2021 với giả định (1) tăng trưởng tín dụng +14% yoy, (2) NIM = 3.7% (+15 bps).
BSC cho rằng thu ngoài lãi sẽ tăng trưởng 10.4% yoy, chủ yếu từ:
• Phí dịch vụ +17.8% yoy. Các ngân hàng đẩy mạnh hoạt động từ phí sau khoảng thời gian giảm phí. Thêm vào đó, hoạt động bán bảo hiểm được đẩy mạnh khi kinh tế hồi phục, từ đó đóng góp vào tăng trưởng phí dịch vụ. Tuy nhiên, một phần tăng trưởng phí có thể bị ảnh hưởng khi các ngân hàng gia tăng chiến lược giảm phí và tăng CASA.
• Các khoản LN từ bán trái phiếu chính phủ sẽ không ở mức cao do nhiều ngân hàng đã ghi nhận lãi lớn từ năm 2020, và không đẩy mạnh hoạt động này.
• Thu hồi từ nợ đã xóa phục hồi nhờ nền kinh tế hồi phục.
• Các khoản LN bất thường đến từ (1) upfront fee từ bancassurance được ghi nhận trong năm 2021 (ACB, VCB, MSB, HDB) và (2) thoái vốn và bán một phần các công ty con, công ty liên kết (ACB, VPB, SHB, MSB ...). ACB tiếp tục tìm kiếm đối tác bán một phần vốn của ACBS trong năm 2021, và MSB tìm thêm đối tác nhằm thoái vốn FCCom.
CHI PHÍ HOẠT ĐỘNG – Tiết giảm
Trong giai đoạn từ 2013 – 2020, cắt giảm chi phí và tăng hiệu quả hoạt động là hướng đi chung của các ngân hàng, CIR toàn ngành được cắt giảm từ ~55% xuống mức ~40%. Chúng tôi cho rằng việc tăng hiệu quả hoạt động của nhân viên, đẩy mạnh bán chéo các sản phẩm ngân hàng giúp tiết kiệm chi phí, đẩy mạnh đầu tư hệ thống và digital banking sẽ tiếp tục là mũi nhọn tập trung của toàn ngành trong năm 2021.
Giảm áp lực trích dự phòng. Với kỳ vọng phục hồi của nền kinh tế trong năm 2021, chúng tôi cho rằng tốc độ tăng trưởng nợ xấu của các NH sẽ giảm, từ đó giảm áp lực trích lập dự phòng, (2) nhiều ngân hàng cũng đã xử lý xong nợ bán cho VAMC trong năm 2020 (BID, CTG, MSB) và cũng được giảm áp lực trích dự phòng từ các khoản nợ này trong năm 2021, và (3) các khoản nợ tái cơ cấu không phải vấn đề lớn trong năm 2021. Ở trường hợp cơ sở, BSC cho rằng chi phí tín dụng (credit costs) của toàn ngành sẽ tăng 0.06% trong năm 2021 với giả định 10% các khoản nợ tái cơ cấu chuyển thành nợ xấu.
BSC cho rằng LNTT toàn ngành sẽ tăng trưởng mạnh ở mức +28.0% yoy, đóng góp chủ yếu bởi (1) tăng trưởng tín dụng +14% trong năm 2021, (2) mặt bằng lãi suất đi ngang, tuy nhiên NIM của toàn ngành sẽ tăng trưởng nhẹ nhờ việc giảm áp lực hỗ trợ lãi suất, (3) tiết giảm chi phí hoạt động và (4) giảm áp lực chi phí dự phòng.
KHẢ QUAN
Định giá P/B cho năm 2021 ở mức 1.3x. BSC ước tính toàn ngành ngân hàng đang được giao dịch ở mức 1.3x PBR, thấp hơn nhiều so với mức đỉnh năm 2018 (định giá 2.3 PBR).
Theo lộ trình vào năm 2021, nhiều ngân hàng phải niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán. Việc này sẽ giúp tăng quy mô toàn bộ thị trường cho ngành ngân hàng. Thêm vào đó, làn sóng chuyển sàn cũng sẽ tiếp tục diễn ra vào năm 2021 khi nhiều ngân hàng vẫn đang niêm yết trên sàn UPCOM sẽ chuyển sang giao dịch trên sàn HSX. Việc chuyển sàn giúp (1) công bố thông tin minh bạch và kịp thời hơn, (2) gia tăng thanh khoản cho cổ phiếu, từ đó giúp các NH chuyển sàn có mức định giá cao hơn trước đây.
Một vài ngân hàng tiếp tục triển khai ký kết hợp đồng độc quyền bancassurance, giúp ghi nhận thêm LN bất thường lớn từ upfront fee. Đây cũng là một catalyst được nhiều nhà đầu tư quan tâm. Trong năm 2021, có 2 ngân hàng sẽ ký kết hợp đồng độc quyền bancassurance gồm có MSB và HDB. Ngoài ra, nhiều ngân hàng sẽ ghi nhận LN từ upfront fee bắt đầu từ năm 2021 gồm có (1) ACB, (2) CTG, (3) VCB giúp đóng góp thêm vào thu nhập ngoài lãi cho toàn ngành ngân hàng.
Với môi trường kinh doanh thuận lợi, tăng trưởng LN cao và nhiều catalyst hỗ trợ giúp cho toàn ngành NH có thể được định giá ở mức tương đương với mức PB trailing hiện nay. Do đó, chúng tôi đặt mức định giá cơ sở cho toàn ngành ở mức 1.7x PBR cho toàn ngành ngân hàng và điều chỉnh mức định giá kỳ vọng cho từng ngân hàng dựa theo (1) quy mô, (2) chất lượng tài sản và (3) hiệu quả hoạt động.
BSC khuyến nghị KHẢ QUAN với ngành Ngân hàng trong năm 2021 với quan điểm (1) tăng trưởng LN cao nhờ sự phục hồi của nền kinh tế, (2) kiểm soát tốt chất lượng tài sản sau dịch bệnh. Chúng tôi khuyến nghị MUA cổ phiếu VCB, CTG, VPB, TCB trong năm 2021
Yuanta & VCBS & VNDirect & BSC
Link nội dung: https://vinabull.vn/trien-vong-nganh-ngan-hang-nam-a270.html